Trứng được xem như món ăn khoái khẩu của hầu hết trẻ nhỏ, cũng là một trong những thực phẩm cung cấp nhiều chất đạm có giá trị sinh học cao, dễ hấp thu (tỷ lệ hấp thu chất đạm của trứng là 100%, tương đương với đạm trong sữa nếu chế biến đúng). Song nếu cho trẻ ăn quá nhiều trứng hoặc chế biến không đúng cách sẽ gây những ảnh hưởng không tốt đến hệ tiêu hóa và sức khỏe của bé. Vậy cho bé ăn trứng như thế nào là đúng cách?
Xem thêm: khám tổng quát cho bé ở hà nội
Giá trị dinh dưỡng của trứng
Thông thường 1 quả trứng gà ta có trọng lượng khoảng 40g (cả vỏ), 1 quả trứng vịt 70g (cả vỏ). Nếu bỏ vỏ, 100g trứng gà sẽ tương đương 3 quả trứng, còn 100g trứng vịt tương đương 1,5 quả. Điều này cho thấy giá trị dinh dưỡng của trứng gà và vịt gần như tương đương nhau, nhưng nếu xét về thành phần vi chất dinh dưỡng, trứng gà tốt hơn trứng vịt. Hàm lượng kẽm, virtamin A của trứng gà cao hơn trứng vịt, ngoài ra trong trứng gà còn có cả vitamin D – loại vitamin có rất ít trong thực phẩm. Hàm lượng chất đạm của trứng gà cũng cao hơn trứng vịt, thêm nữa chất béo trong trứng gà thấp hơn nên ít gây đầy bụng khó tiêu, vì vậy các mẹ nên cho trẻ ăn trứng gà.
Cho trẻ ăn bao nhiêu trứng là đủ?
Không thể phủ nhận những dưỡng chất mà trứng đem lại cho trẻ, nhưng mẹ cũng không nên cho bé ăn quá nhiều, vì hàm lượng chất béo trong trứng cao làm bé dễ bị đầy bụng, khó tiêu, rối loạn tiêu hóa. Tùy theo độ tuổi mà mẹ cho bé ăn trứng với lượng khác nhau:
- Từ 6 – 7 tháng tuổi: chỉ nên ăn 1/2 lòng trứng gà/bữa; ăn 2-3 lần/tuần
- Từ 8 – 12 tháng tuổi: ăn 1 lòng đỏ/bữa; ăn 3 – 4 bữa/tuần.
- Từ 1 – 2 tuổi: nên ăn 3-4 quả trứng/tuần; ăn cả lòng trắng.
- Từ 2 tuổi trở lên nếu bé thích trứng có thể cho ăn 01 quả/ngày
Xem thêm: khám sức khỏe đi du học
Cách chế biến trứng tốt nhất
- Không nên cho bé ăn trứng lòng đào hay hòa tan trứng sống trong cháo, bột nóng mà nên luộc hoặc nấu chín để phòng nhiễm khuẩn bởi đường sinh dục của gà rất nhiều vi khuẩn nên cả trong và ngoài trứng gà đều có thể nhiễm khuẩn, đặc biệt là salmonella – một yếu tố gây ngộ độc thức ăn. Ngoài ra, trong lòng trắng trứng sống còn có một chất chống lại biotin (vitamin H), cản trở hấp thu dưỡng chất này. Vitamin H là yếu tố không thể thiếu được trong quá trình sử dụng protein và đường – bột, cần thiết cho sự phát triển bình thường của cơ thể. Vì vậy, ăn trứng sống hoặc chín tái đều có nguy cơ ảnh hưởng đến sức khỏe.
- Khi rán hoặc ốp trứng mẹ nên để lửa nhỏ, thời gian lâu một chút cho lòng đỏ vừa chín là tốt. Nếu ăn trứng gà sống, tỷ lệ hấp thu và tiêu hóa chỉ được 40%, ở trứng luộc là 100%, trứng rán chín tới 98,5%, trứng rán già 81%, trứng ốp 85%, trứng chưng 87,5%, trưng ôp 97%.
- Cách luộc trứng đúng:cho trứng cùng với nước lã vào nồi rồi đun sôi dần. Khi nước sôi, vặn nhỏ lửa đun khoảng 2 phút rồi tắt bếp ngâm trứng khoảng 5 phút. Như vậy, trứng vừa chín tới, lòng đỏ không bị chín kỹ quá, dễ hấp thu. Lúc luộc trứng, có thể cho thêm một ít muối để giữ trứng không bị vỡ. Trứng gà vừa lấy ở tủ lạnh ra không nên luộc ngay, cũng không nên ngâm trong nước nóng hay luộc bằng lửa quá to vì dễ gây vỡ trứng, hoặc không chín lòng đỏ.
Chế biến trứng cho trẻ tùy theo độ tuổi
- Trẻ 6-12 tháng: Cho bé ăn bột trứng.
Cách làm:
– Nấu chín bột.
– Đập lòng đỏ trứng vào bát đã có rau băm nhỏ, đánh đều trứng và rau,
– Đổ trứng và rau vào quấy đều nhanh tay, bột sôi lên là được, không nên đun kỹ quá.
- Trẻ 1-2 tuổi: Có thể ăn cháo trứng, cũng tương tự như nấu bột trứng, khi cháo chín mới cho trứng vào nồi, đun sôi lại. Ngoài ra có thể cho bé ăn trứng luộc vừa chín tới.
- Trẻ từ 2 tuổi trở lên: có thể ăn cháo trứng, trứng luộc, trứng rán đúc thịt, trứng sốt cà chua ăn với cơm.
Xem thêm: xét nghiệm sàng lọc sơ sinh